Kinh tế Vĩnh Tường qua các thời kỳ Vĩnh Tường

Trong thời kỳ Pháp thuộc, nền kinh tế Vĩnh Tường phát triển chậm, nông nghiệp đóng vai trò chủ đạo. Hơn nữa, do Vĩnh Tường là nơi lắm thóc, đông dân của tỉnh Vĩnh Yên nên thực dân Pháp càng đẩy mạnh quá trình vơ vét. Chúng thực hiện chính sách trưng thu, tăng thuế…làm cho đời sống của người dân đã cơ cực càng thêm điêu đứng.

Trong thời kỳ Pháp thuộc, nền kinh tế Vĩnh Tường phát triển chậm, nông nghiệp đóng vai trò chủ đạo. Hơn nữa, do Vĩnh Tường là nơi lắm thóc, đông dân của tỉnh Vĩnh Yên nên thực dân Pháp càng đẩy mạnh quá trình vơ vét. Chúng thực hiện chính sách trưng thu, tăng thuế…làm cho đời sống của người dân đã cơ cực càng thêm điêu đứng.

Các ngành nghề thủ công: dệt vải, rèn sắt... còn tồn tại thưa thớt ở một vài hộ gia đình; các chợ buôn bán mọc lên lẻ tẻ với quy mô nhỏ hẹp trong từng thôn, làng.

Cách mạng tháng Tám thành công, thực hiện Chỉ thị kháng chiến, kiến quốc của Đảng và Chính phủ, Vĩnh Tường đẩy mạnh tăng gia sản xuất. Nhiều xã đã vận động thực hiện giảm tô 25%, tiến hành điều chỉnh lại ruộng đất công cho những gia đình có ruộng và lập quỹ đất để mở trại tăng gia, sản xuất, lập ra các đội tuần tra ở nhiều xã ven sông Hồng, chỉ đạo nhân dân khắc phục hậu quả lũ lụt, sửa chữa mương máng, tưới tiêu, cải tạo đồng ruộng. Công tác đắp đê, phòng lụt được quan tâm, đời sống nhân dân được cải thiện…

Nhiều ngành nghề thủ công vẫn được duy trì, cung cấp những mặt hàng thiết yếu cho kháng chiến và đời sống. Hàng trăm lò ép mía nấu mật ở xã Vĩnh Thịnh được phục hồi, nghề mộc ở Bích Chu, nghề rèn ở Thùng Mạch, Lý Nhân phát triển.

Các chợ vẫn được mở để phục vụ cho nhu cầu mua bán trao đổi của nhân dân như: Chợ Giang ở Thổ Tang, chợ Rưng ở Tứ Trưng...

Sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc, huyện Vĩnh Tường đứng trước nhiều khó khăn. Chiến tranh đã tàn phá mảnh đất này rất nặng nề. Trên toàn huyện có tới 70% nhà cửa bị đốt phá, một số xã như Bình Dương, Ngũ Kiên, Đại Đồng... bị tàn phá tới 90%, hơn 3.000 mẫu ruộng bị bỏ hoang, trong đó có hơn 1.000 mẫu là vành đai trắng, nhiều nơi còn có bom, mìn. Hệ thống kênh mương bị phá hoại, gây khó khăn cho cấy trồng, hàng nghìn con trâu, bò bị giết. Xóm làng xơ xác, điêu tàn.

Nhân dân Vĩnh Tường đã từng bước khắc phục khó khăn, vượt qua gian khổ, vững bước đi lên trong thời kỳ mới.

Trên lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, đến tháng 12- 1954, hơn 500 mẫu ruộng hoang hóa ở xã Kim Xá được đưa vào sản xuất; nhân dân Tuân Chính, Minh Đức (nay là xã Thượng Trưng), Ngũ Kiên đưa hơn 1.000 mẫu ruộng vào cày cấy. Thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965), ngành nông nghiệp huyện Vĩnh Tường có những nét khởi sắc. Nhiều mô hình điển hình tiên tiến về sản xuất nông nghiệp phát triển mạnh như phong trào làm phân xanh (làm bèo hoa dâu) ở Phù Lập (xã Tam Phúc); phong trào năng suất lúa 5 tấn ở xã Tuân Chính. Kết quả, vụ chiêm xuân năm 1962 đạt 39.047 mẫu, vượt kế hoạch 1,7%, tăng 2,1% so với năm 1961. Ngày 25- 11- 1961, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Hợp tác xã Lạc Trung, xã Bình Dương, điển hình tiên tiến của phong trào trồng cây toàn tỉnh.

Từ năm 1973 đến năm 1975, nhân dân Vĩnh Tường phát triển sản xuất, đẩy mạnh phát triển kinh tế. Năm 1973, tổng diện tích gieo trồng toàn huyện đạt 18.12 ha, năng suất lúa đạt 6.292 kg/ha, tổng sản lượng lương thực quy thóc đạt 43.063 tấn.

Thời kỳ xây dựng đất nước (1975 -2010), diện tích cây trồng luôn duy trì sản xuất ổn định trên 20 nghìn ha. Năng suất cây trồng không ngừng tăng. Đặc biệt cây lúa, năng suất từ 34,65 tạ/ha (1996) tăng lên 58,42 tạ/ha (2005).

Năm 2010, năng suất lúa đạt 60,46 tạ/ha, tăng 25,81 tạ/ha so năm 1996. Tổng sản lượng lương thực năm 2010 đạt 96.820 tấn, tăng 35.861 tấn so năm 1996. Bên cạnh đó năng suất các cây trồng khác không ngừng tăng. Nguyên nhân đó chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất.

Về phong trào HTX nông nghiệp, các HTX NN trên địa bàn huyện được xây dựng và phát triển từ những năm 1960. Cả huyện có hơn 100 HTX được xây dựng theo quy mô thôn, làng, khu vực. Các HTX NN thời kỳ 1960-1975, đã có nhiều đóng góp về sức người, sức của để góp phần vào thắng lợi của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Từ những năm 1974-1975, các HTX NN theo mô hình thôn, làng, khu vực đã được sáp nhập để thành lập theo quy mô toàn xã theo chính sách của Đảng và nhà nước. Tuy nhiên, đến thời kỳ từ năm 1986-1988, thực hiện Nghị Quyết 10 của BCH Trung ương Đảng (Khóa VI), nhiều HTX NN đã chia tách từ quy mô toàn xã thành các HTX NN theo quy mô thôn, làng, khu vực. Từ năm 1997 đến nay, thực hiện luật HTX NN trên địa bàn huyện đã chuyển đổi về mô hình và phương thức để hoạt động theo luật. Thẹo đó, hướng hoạt động chủ yếu là làm các dịch vụ theo yêu cầu của hộ gia đình xã viên. Hiện tại, trên địa bàn huyện có 38 HTX NN (Trong đó: Có 11 HTX quy mô toàn xã và 27 HTX NN quy mô thôn).

Trên lĩnh vực CN- TTCN- XD:

Sau năm 1954, huyện Vĩnh Tường tiến hành cải tạo công - thương nghiệp, xây dựng các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp nghề mộc, nghề rèn... Giai đoạn 1965 - 1968, sản xuất thủ công nghiệp có bước phát triển nhanh, mạnh. Một số cơ sở như xưởng cơ khí, xí nghiệp nước chấm, xí nghiệp vôi, bánh kẹo... được xây dựng và phát triển quy mô, sản xuất ra nhiều sản phẩm phục vụ cho sản xuất và đời sống. Các hợp tác xã sản xuất gạch ngói với sản lượng 20 triệu viên mỗi năm. Nhiều hợp tác xã có tổ rèn, mộc, cơ khí. Đến năm 1968, giá trị sản lượng của thủ công nghiệp trong các hợp tác xã tăng gấp tám lần, giá trị sán lượng của thủ công nghiệp huyện tăng gấp bốn lần so với năm 1966.

Nhiều hợp tác xã mua bán được xây dựng. Cuối năm 1958 có 16.389 xã viên tham gia hợp tác xã mua bán với 18.203 cổ phần. Nhiều mặt hàng tiêu dùng: vải vóc, dầu, muối; mặt hàng quý: xe đạp, phích nước...được buôn bán. Hoạt động của các hợp tác xã mua bán đã thu hút 26.850 xã viên với 79.000 đồng vốn cổ phần, có 28 cửa hàng ở các xã, một số hợp tác xã mua bán điển hình như: Việt Xuân, Bồ Sao, Yên Bình…

Công việc sửa chữa đường giao thông được chú trọng. Các trục đường chính từ huyện đi các xã Tân Cương, Cao Đại, Tứ Trưng được sửa chữa thuận tiện cho Ô tô đi lại. Các cầu cống như: cầu Hương, cầu Quan cũng được tu bổ...

Tổng số cơ sở sản xuất CN - TTCN toàn huyện là 2.567 cơ sở, trong đó tập thể có 19 cơ sở, tư nhân có 24 cơ sở, cá thể 2.523 cơ sở và có 1 cơ sở có vốn đầu tư nước ngoài. Các mặt hàng chủ yếu bao gồm: Chế biến nông sản, thực phẩm, may mặc, vật liệu xây dựng, nông cụ cầm tay, nông sản, sản phẩm của nghề mộc. ..

Giai đoạn từ 2000-2010 được coi là thời kỳ mang tính đột phá trong thực hiện mục tiêu KT- XH của huyện Vĩnh Tường. Giá trị sản xuất năm 2010 ước đạt 2.300 tỷ đồng, tăng gấp 5,5 lần so với năm 2000. Đặc biệt, từ năm 2006, Vĩnh Tường khai  thác tốt các tiềm năng nội lực, tạo mức tăng trưởng kinh tế bình quân 23,7%/năm, thu nhập bình quân đầu người tăng từ 5,2 triệu đồng năm 2005 lên 15,6 triệu đồng năm 2010. Giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá cố định 1994) từ 133.365 triệu đồng (năm 2006) tăng lên 839.014 triệu đồng (năm 2010), tăng 705.649 triệu đồng; trong đó: Công nghiệp khai thác mỏ (khai thác cát, sỏi): từ 676 triệu đồng (năm 2006) tăng lên 8.452 triệu đồng (năm 2010); Công nghiệp chế biến (Chế biến thực phẩm, đồ uống, sản xuất tơ tằm, chế biến và sản xuất từ tre nứa, gạch ngói, phế liệu sắt thép, bao bì đựng hàng...): tăng từ 132.689 triệu đồng (năm 2006) lên 818.563 triệu đồng (năm 2010).

Các làng nghề truyền thống tiếp tục được duy trì và ngày càng phát triển: Đến nay, huyện có 07 làng nghề (làng nghề rèn Bàn Mạch, mộc Vân Giang, mộc Văn Hà của xã Lý Nhân; làng nghề mộc Bịch Chế móc Thủ Độ xã An Tường; làng nghề rắn xã Vĩnh Sơn; làng nghề cơ khí, vận tải biệt An xã Việt Xuân) và có 07 Nghệ nhân(trong đó có 02 nghệ nhân cấp quốc gia) và 41 thợ giỏi đã được UBND tỉnh Vĩnh Phúc công nhận.

Lĩnh vực Thương mại - Dịch vụ: Trong 5 năm (2005-2010), tốc độ tăng trưởng của ngành thương mại - dịch vụ đạt 32,7% (đứng thứ 2 về tốc độ tăng trưởng sau công nghiệp - xây dựng), đã làm thay đổi đáng kể cơ cấu tỷ trọng các ngành kinh tế; Điểm nhấn quan trọng nhất trong lĩnh vực thương mại - dịch vụ là thị trấn Thổ Tang, đây được coi là điểm sáng" của cả nước về hoạt động buôn bán, giao lưu trao đổi hàng hóa, nhất là về mặt hàng nông sản. Đến nay, dự án xây dựng Chợ đầu mối nông sản thực phẩm, hệ thống kho vận Vĩnh Tường đã được quy hoạch. Năm 2010, Chi hội Doanh nghiệp Vĩnh Tường được thành lập với mục tiêu, nhiệm vụ gắn kết giữa các doanh nghiệp phát triển trong hợp tác kinh doanh, làm cầu nối giữa Nhà nước - doanh nghiệp - nhà khoa học và người dân để có những định hướng phát triển kinh tế, thu hút đầu tư, khuyến khích các doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy việc phát triển kinh tế chung của huyện.

Về phát triên giao thông:

Huyện có mạng lưới giao thông đường bộ tương đối hoàn chỉnh, trong đó có các tuyến như: quốc lộ 2A, quốc lộ 2C; tỉnh lộ 304, 309; đường sắt thành phố Hà Nội - Lào Cai chạy qua. Điều này thuận tiện cho việc lưu thông tiêu thụ nông sản, hàng hoá của huyện. Bên cạnh đó, hệ thống của các sông Hồng, sông Đáy, sông Lô cũng góp phần làm cho việc giao thông đường thuỷ thêm thuận tiện.

Thực hiện công cuộc đổi mới, Vĩnh Tường luôn chú trọng xây dựng các công trình hạ tầng quan trọng. Hệ thống đường bộ được phân bổ tương đối phù hợp đường Ô tô đến được tất cả các xã, thị trấn. Tổng số chiều dài đường bộ là 1.209,44 km, đường giao thông nông thôn (GTNT) chiếm 88% với 1.066,74 km, trong đó đường xã là 86,07 km, đường thôn là 192,5 km, đường xóm là 287,97 km, đường giao thông nội đồng là 500,2 km.

Được sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân, phong trào làm đường GTNT giai đoạn 2007-2010 đạt 49% giá trị đề án, đưa tổng số đường GTNT được xây dựng cứng hóa giai đoạn 2007-2010 là 174,84 km. Trong đó, đường xã cứng hóa 100%, đường thôn cứng hoá 92%, đường xóm ngõ cứng hóa 96%, đường nội đồng cứng hóa đạt 22%. Xây dựng GTNT đã góp phần quan trọng trong quá trình phát triển KT-XH, khắc phục được tình trạng chênh lệch về trình độ phát triển KT-XH, đời sống văn hóa ở nông thôn, từng bước nâng cao cuộc sống của người dân.

Cùng với những thành tích đã đạt được trong phong trào xây dựng GTNT, từ năm 2007 đến nay, huyện Vĩnh Tường là đơn vị có thành tích xuất sắc và được tặng cờ thi đua của Chính phủ (năm 2006 và năm 2008),Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải (năm 2009), Bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc (năm 2007), Cờ thi đua xuất sắc của UBND tỉnh (năm 2010). Vĩnh Tường luôn được đánh giá là huyện dẫn đầu về đầu tư xây dựng, phát triển giao thông trên địa bàn tỉnh.

Hiện nay, huyện đang tiếp tục triển khai việc quy hoạch cụm công nghiệp, các cụm kinh tế xã hội để góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng.